Đấu giá là một hình thức giao dịch phổ biến trong nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là bất động sản, nghệ thuật, đồ cổ, xe hơi, máy móc thiết bị, v.v. Đấu giá có thể được hiểu là một quá trình cạnh tranh giữa các bên tham gia để mua hoặc bán một tài sản với giá cao nhất hoặc thấp nhất có thể. Trong đấu giá, hợp đồng là một yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng liên quan tới đấu giá còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách rõ ràng và hiệu quả. Bài viết này sẽ phân tích một số vấn đề cơ bản về pháp luật về hợp đồng liên quan tới đấu giá, cũng như đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật này.
Một vấn đề cơ bản là khái niệm và loại hợp đồng trong đấu giá. Theo Điều 3 Luật Đấu giá tài sản số 43/2013/QH13, đấu giá là “hoạt động kinh doanh xác định người trúng thầu để ký kết hợp đồng mua bán tài sản theo nguyện vọng của chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quyết định việc bán tài sản”. Theo Điều 4 Luật Hợp đồng số 91/2015/QH13, hợp đồng là “thỏa thuận của hai hoặc nhiều bên nhằm tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”. Từ hai khái niệm này, có thể thấy rằng hợp đồng trong đấu giá là một loại hợp đồng dân sự, được ký kết giữa người trúng thầu và chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quyết định việc bán tài sản. Tuy nhiên, trong thực tiễn, có thể có nhiều loại hợp đồng khác liên quan tới đấu giá, như hợp đồng giữa người tham gia đấu giá và nhà cung cấp dịch vụ đấu giá, hợp đồng giữa nhà cung cấp dịch vụ đấu giá và chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quyết định việc bán tài sản, v.v. Những loại hợp đồng này cũng có tính chất dân sự và phải tuân theo các quy định của Luật Hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể về những loại hợp đồng này, gây ra khó khăn trong việc xác định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên.
Một vấn đề khác là điều kiện hợp pháp của hợp đồng trong đấu giá. Theo Điều 6 Luật Hợp đồng, một hợp đồng phải có các điều kiện sau để được coi là hợp pháp: (1) các bên có năng lực hành vi dân sự; (2) các bên tự nguyện ký kết hợp đồng; (3) nội dung của hợp đồng không trái với qui định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và xã hội chủ nghĩa; (4) mục đích của hợp đồng không trái với qui định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và xã hội chủ nghĩa. Trong đấu giá, có thể có những trường hợp mà một trong các điều kiện này không được thỏa mãn, dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu hoặc có hiệu lực hạn chế. Ví dụ, người tham gia đấu giá không có năng lực hành vi dân sự do bị giới hạn hoặc mất năng lực; người tham gia đấu giá bị lừa dối, ép buộc hoặc bị lợi dụng để ký kết hợp đồng; nội dung của hợp đồng vi phạm các quy định về giới hạn quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc quyền quản lý tài sản; mục đích của hợp đồng nhằm thực hiện một hành vi phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác, v.v. Những trường hợp này cần được xử lý theo các quy định của Luật Hợp đồng và Luật Đấu giá tài sản, cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm và biện pháp xử lý của các bên trong những trường hợp này, gây ra mâu thuẫn và tranh chấp.
Một vấn đề nữa là thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong đấu giá. Theo Điều 10 Luật Đấu giá tài sản, “hợp đồng mua bán tài sản được ký kết ngay sau khi công bố kết quả trúng thầu”. Theo Điều 11 Luật Hợp đồng, “hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Từ hai quy định này, có thể hiểu rằng hợp đồng trong đấu giá có hiệu lực từ thời điểm công bố kết quả trúng thầu và ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong thực tiễn, có thể có những trường hợp mà thời điểm này bị kéo dài do các yếu tố khách quan hoặc chủ quan, như việc thanh toán tiền cọc, tiền mua tài sản, việc giao nhận tài sản, việc xin cấp giấy tờ liên quan, v.v. Những trường hợp này cần được xem xét theo các điều khoản của hợp đồng